Một trong những sinh viên thực tập hè người Mỹ trước đây từng ở tại gia đình tôi đã lùng được nó tại một chợ trời ở Paris hai năm trước và gửi tặng tôi như một món quà lưu niệm.
Tấm bưu thiếp phai màu ban đầu được gửi bằng bưu điện vào năm 1914 – phía sau tấm thiệp có vài dòng viết vội, có màu nâu đỏ bằng tiếng Đức với nội dung gửi cho một bác sĩ nào đó ở Anh. Bên cạnh mấy dòng đó, anh sinh viên người Mỹ kia đã ghi lời đề tặng cho tôi với màu mực đen: “Một ngày nào đó nhớ đến anh nhé!”.
Hình ảnh trên tấm bưu thiếp sẽ nhắc Oliver nhớ lại buổi sáng khi tôi lần đầu tiên tôi nói ra tình cảm của mình. Hoặc nhớ về ngày hai chúng tôi đạp xe lòng vòng bên triền đồi và cố gắng tảng lờ câu chuyện tình cảm.
Hoặc nhớ về ngày chúng tôi đã quyết định đi dã ngoại ở đó và đã hứa sẽ không chạm vào nhau, và cũng buổi chiều hôm đó chỉ đơn giản tận hưởng cảnh giác nằm cạnh nhau trên chiếc giường.
Tôi muốn anh ấy sẽ đặt tấm bưu thiếp đó trước mắt anh trong suốt cuộc đời anh, trên mặt bàn, ở đầu giường, ở khắp mọi nơi. Hãy treo nó ở khắp mọi nơi anh đến, tôi nghĩ vậy.
Đêm hôm đó, trong giấc ngủ của mình, một bí ẩn tồn tại bấy lâu đã được lý giải – nó tồn tại suốt hai năm qua mà tôi chưa hề nghĩ đến và đây lần đầu tiên tôi nghĩ về nó.
Anh sinh viên gửi tặng bưu thiếp kia tên là Maynard. Đầu một buổi chiều, khi anh ấy biết mọi người đều đang nghỉ ngơi, anh gõ cửa sổ phòng tôi và xin ít mực đen. “Anh chỉ dùng mực đen thôi nhưng mới hết rồi và anh biết em có.”
Rồi anh Maynard bước vào phòng tôi, lúc đó tôi đang mặc bồ đồ tắm, tôi đi đến cái bàn lấy lọ mực rồi đưa cho anh. Anh ấy nhìn chăm chăm vào tôi và ngần ngừ trong một lúc trước khi cầm lấy lọ mực.
Chiều hôm đó anh ấy đặt lọ mực trước cửa phòng tôi, từ hướng ban công. Thông thường thì người ta sẽ lại gõ cửa và trả lại lọ mực. Nhưng anh ấy đã không làm thế. Lúc đó tôi đã 15 tuổi. Và tôi chắc sẽ không nói không nếu anh ấy gõ cửa lần nữa …
Trong mấy lần trò chuyện với anh Maynard, tôi có kể về chỗ tôi thích nhất trên mấy ngọn đồi.
Tôi đã hoàn toàn không nghĩ gì về anh Maynard cho đến khi anh Oliver mang đi cái bưu thiếp của anh ấy.
Sau bữa ăn tối, tôi thấy bố đang ngồi tại chỗ quen thuộc của ông ở bàn ăn sáng. Ghế của ông đã được xoay ra hướng đối diện với biển, và trên đùi của ông là mấy bản thảo cho cuốn sách mới nhất ông đang viết.
Bố tôi uống trà hoa cúc chamomile như thông thường, thưởng thức quang cảnh buổi đêm. Bên cạnh ông là ba cây nến lớn tỏa hương dầu sả citronella. Bọn muỗi đã phải trả giá và bị tống cổ khỏi phòng.
Tôi đi xuống cầu thang để ngồi cùng bố. Đây là thời gian chúng tôi ngồi cùng nhau như thường lệ, và tôi đã lơ là ông trong suốt tháng qua.
"Kể cho bố về về Rome đi," bố tôi nói ngay khi thấy tôi chuẩn bị ngồi xuống bên cạnh.
Đây cũng là khoảnh khắc ông tự cho phép thưởng thức điếu thuốc lá cuối trong ngày. Ông quẳng mấy tờ bản thảo với một cử chỉ mệt mỏi, như thể háo hức mà nói với tôi rằng “giờ chúng ta lại ở bên nhau rồi” - và châm điếu thuốc bằng một động tác rất “bố già” đó là mồi lửa từ một trong mấy ngọn nến sả citronella đang cháy.
"Thế nào con?"
Không có gì để nói nên tôi chỉ lặp lại những gì tôi đã kể với mẹ: khách sạn, Capitol, Villa Borghese, San Clemente, mấy nhà hàng.
"Ăn cũng được chứ?"
Tôi gật đầu.
"Và uống cũng tốt chứ?"
Gật đầu lại.
"Làm hết những điều mà ông nội con cho phép chứ?" Bố tôi hỏi.
Tôi bật cười. Dạ không, chưa đâu ạh.
Tôi kể cho ông vụ việc gần Pasquino [Elio bị nôn mửa].
"Ôi trời, hay thật đấy, lại đi nôn trước một người đẹp như tượng vậy ah! [nguyên văn: talking statute = bức tượng biết nói]”, bố tôi bảo.
*******
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét